🐰 Lễ Cầu Hồn Người Chết Đuối

Mời quý vị các bạn cùng theo dõi câu chuyện ma có thật ở Vụ Bản Hoà Bình có tựa đề "Oan Hồn Hai Mẹ Con" của tác giả Trần Quỳnh Nga. Mời các bạn cùng lắng nghe câu chuyện ngay sau đây qua giọng đọc MC Quàng A Tũn. Giọng đọc: Quàng A Tũn. Tác giả: Trần Quỳnh Nga. 1 Xã hội. Thợ mò xác vén bức màn bí ẩn về "hồ tử thần". - "Bốn cô gái nằm cùng một chỗ dưới đáy hồ, hai cô nằm cạnh nhau còn hai cô chết vẫn ôm nhau… chặt cứng khiến người mò xác nhiều năm như chúng tôi cũng phải giật mình. Lòng hồ lởm chởm đá, thành hồ Những người bất hạnh bị chết đuối đó người ta thường gọi là ma lam. Lẽ xưa, thì người nhà các nạn nhân phải nhờ các Pháp sư hay nhà chùa, làm Lễ bắc cầu để giải trừ oan khiên, tạo một con đường đưa các oan hồn, uổng tử đó tới cửa phật, giải hết nỗi oan Cách cúng lễ Vu Lan, rằm tháng Bảy tại nhà thường có các lễ: cúng Phật, cúng thần linh, cúng gia tiên, cúng thí thực cô hồn và cúng phóng sinh. 1. Cúng Phật. Vào ngày rằm tháng Bảy, sắp một mâm cơm chay hoặc đơn giản hơn là mâm ngũ quả để cúng Phật rồi thụ lộc tại nhà. Mới đây, chính quyền tổ chức một buổi cầu siêu cho những linh hồn chết trên biển cả. Buổi lễ có cả nghìn người tham dự và chủ yếu là những người có thân nhân bị chết trên biển. Người ta mang tới đây nhiều tiền, hương cúng để mong linh hồn người thân siêu thoát. III. MẪU CẦU NGUYỆN GIỜ KINH TỐI. Và mỗi tối, trước khi đi ngủ, quý bạn đọc kinh cầu nguyện tạ ơn Chúa đã gìn giữ quý bạn qua một ngày bình an, quý bạn cũng dâng tất cả những việc làm trong ngày cho Chúa, những việc thành công, những vui mừng và ngay cả những thất Điều này có nghĩa là một người chết đuối không thể kêu la hoặc kêu gọi sự giúp đỡ, hoặc tìm kiếm sự chú ý, vì họ không thể có đủ không khí. Phản ứng chết đuối bản năng là tập hợp cuối cùng của phản xạ tự chủ trong 20-60 giây trước khi chìm dưới nước, và với mắt người chưa được đào tạo có thể trông giống như hành vi khá an toàn bình tĩnh. Linh hồn người chết là gì. Thần chú trị chứng Trẻ khóc đêm. Như vong linh người chết đuối, thường luôn thấy mình bị ngạt nước, không thể nói chuyện được; vong linh người chết tai nạn luôn thấy thân mình không nguyên vẹn nên bị cảm giác đau đớn trói chặt Người nhà của nạn nhân chết đuối nhờ "thầy cúng" tới hiện trường "gọi hồn" về với gia đình. Khi "thầy" lội xuống suối thì bị nước cuốn trôi tử nạn. 'gọi hồn' người chết đuối. Thứ ba, 24/9/2013 15:50 (GMT+7) Tầng 7, D29 Phạm Văn Bạch, Quận Cầu Giấy, Hà Pir5. Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến thời đầu Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập. Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra sắc lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã. Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công ồng Trent xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết. Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa. Lời Bàn Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là phương cách xoá bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa. Lời Trích “Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục – hoặc ngay cả một thời gian ngắn của hỏa ngục.’ Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn, là nơi Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác… Thánh Catherine ở Genoa, vị thần bí của thế kỷ 15, viết rằng lửa’ luyện tội là tình yêu Thiên Chúa nung nấu’ trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. ó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với ấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, đau khổ vì nỗi mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa thực sự được hưởng cách trọn vẹn” Leonard Foley, Tin Chúa Giêsu. LỄ BẮC CẦU GIẢI OAN CHO NGƯỜI CHẾT ĐUỐI THẾ NÀO * trích từ TÌM HIỂU VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TRONG DÂN GIAN ; Đặng Xuân Xuyến ; Thanh Hóa ; 2007 Đây là nghi lễ thờ cúng những vong hồn vất vưởng, không nơi nương tựa hoặc những người chết do tai nạn bất ngờ như đuối nước, tai nạn.... Lễ này nhằm dẫn độ linh hồn từ nơi lâm nạn về nương nhờ cửa Phật. Đối với người đuối nước, lễ bắc cầu giải oan rất được chú trọng. Nghi lễ trọng thể này được cử hành với 11 hạng mục bắt buộc như sau 1. Hai bàn thờ 2 bàn thờ Hà Bá và Âm Phủ để dẫn hồn sứ giả và chủ hầu đặt trong một long đình với 2 chiếc mũ Mũ trắng là mũ Hà Bá, mũ vàng là mũ Âm phủ. Thông điệp là dành cho sứ giả ngũ đạo tướng quân và đương cảnh thổ địa, yêu cầu các vị dẫn vong hồn vào thần phan. Bàn thờ đặt trên một bàn gỗ có ảnh hay bài vị của nạn nhân đuối nước. 2. Một chiếc gương chiếu Gương dùng để khai quang, được đặt trên một tấm ván nhỏ, để trên đòn tay long đình. 3. Một cây kim tích tượng Đây là cây gậy làm bằng gỗ, tín ngưỡng cho rằng cây gậy này làm rung chuyển cõi âm, tượng trưng cho dấu hiệu của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. 4. Cây phan thần Được làm bằng giấy hình chữ nhật, trên đầu có dấu ấn nhà Phật, tức là chữ "nén", chia làm 3 phần theo chiều dài. Phần giữa ghi tên họ, nghề nghiệp nạn nhân. Phần bên phải ghi ngày tháng năm sinh. Phần còn lại ghi ngày mất. Phía dưới thần phù chừa các chỗ trống ghi tên 3 vị thần trông coi theo thứ tự từ trái sang phải Bành Cứ, Bành Kiên, Bành Chất. Dưới thần Bành Cứ có câu thần chú Tam hồn câu chí ba hồn đều tới. Dưới thần Bành Chất có câu thần chú Thất phách cầu lai bảy vía cùng lại, nếu người chết là đàn ông; còn nếu người chết là đàn bà thì "Cửu phách câu lai" chín vía cùng đến. Thần phan được buộc vào cây tre. Khi hồn nạn nhân được giải oan bắc cầu sẽ nhập vào cành phan dưới sự che chở của Bồ Tát - tượng trưng bởi cây kim tích tượng. 5. Hình nhân Được làm bằng đồ mã dùng để thế mạng cho nạn nhân đã đuối nước một cách oan uổng. Ở trên ngực của hình nhân có dòng chữ Hình nhân nhất tương thế mệnh X quý công húy Y hình nhân dùng để thế mạng cho ông X, huý là Y. Khi buổi lễ kết thúc, hình nhân sẽ được ném xuống sông. 6. Một cầu vải Còn được gọi là cầu hồn bắc từ sông lên nhưng không chạm mặt nước, đến tấm ván đặt gương khai quang. Cầu vải có 6 xà ngang bằng que tre. 7. Một chiếc thang bằng dọc lá chuối Bắc vào cầu hồn, nơi xà ngang cuối cùng của cầu vải, chân thang ngâm xuống nước, vong hồn nạn nhân đuối nước sẽ theo thang này đi lên cầu vải. 8. Bảy lá cờ Được làm bằng giấy, cắm dọc theo cầu vải ngay chỗ có các cọc để xà ngang bằng tre. Ở trên mỗi lá cờ đều ghi một lời chú hay lệnh của Địa Tạng Vương Bồ Tát cho Hà Bá và các sứ giả để đi tìm hồn vía nạn nhân đuối nước. 9. Một con thần kê Còn được gọi là con gà trống, bị nhốt trong lồng đặt bên thần tượng, dưới cầu vải. Pháp sư cho gà nuốt 1 lá bùa để gà có phép linh tìm được vong hồn của nạn nhân đuối nước. Gà trống có đủ 5 đức tính tốt vân - vũ - dung - nhân - tín nên khi gà trống đã nuốt bùa thì sẽ thành gà thần thần kê. 10. Một nồi bùa Là nồi đất có đậy vung ở trong đựng bùa. Trên vung chèn 1 hòn gạch nặng phòng mãnh lực trong nồi phát ra dễ gây tai nạn cho thân nhân người bị hại. 11. Một chiếc thuyền Được neo ở bờ sông dùng khi làm lễ. Chiếc thuyền sẽ trở nồi bùa, hình nhân và thần kê ra giữa sông rồi ném xuống sông. Người làm chủ lễ là pháp sư. Pháp sư và phụ tá ngồi trên 1 chiếc chiếu đặt bên phải bàn thờ, giữa bàn thờ với sông, hồ, nơi nạn nhân bị đuối nước. Còn gia chủ và thân nhân của người đuối nước ngồi trên chiếc chiếu khác cùng quay mặt về phía chủ lễ. Khi vào lễ, pháp sư đọc sớ xin cho Hà Bá chiêu linh hồn nạn nhân đuối nước, sau đó một phụ tá đọc sớ chiêu hồn nạn nhân đuối nước và cuối cùng là sớ khấn vong hồn nạn nhân đuối nước. Trong khi đọc sớ, pháp chú và phụ tá làm phép rồi hoá ngay sớ. Sau đó pháp sư dẫn vong hồn nạn nhân đuối nước vào cành phan. Tiếp đó là lễ khai quang sẽ làm hồn phách nạn nhân đuối nước trở lại sáng suốt. Khi lễ khai quang kết thúc thì pháp sư và những người hành lễ xuống thuyền với hình nhân, nồi bùa và thần kê. Họ cho thuyền bơi quanh chỗ nạn nhân đuối nước lâm nạn, lúc này pháp sư cầm thần kê niệm chú còn phụ tá đánh trống rồi ném hình nhân và cả thần kê xuống sông. Cuối cùng, pháp sư khấn cầu rồi ném nồi bùa xuống sông.. Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến thời đầu Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra sắc lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công ồng Trent xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và BànCó nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là phương cách xoá bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Trích“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục – hoặc ngay cả một thời gian ngắn của hỏa ngục.’ Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn, là nơi Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác… Thánh Catherine ở Genoa, vị thần bí của thế kỷ 15, viết rằng lửa’ luyện tội là tình yêu Thiên Chúa nung nấu’ trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. ó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với ấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, đau khổ vì nỗi mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa thực sự được hưởng cách trọn vẹn” Leonard Foley, Tin Chúa Giêsu.

lễ cầu hồn người chết đuối